Sau khi tai nạn, T không dừng xe ô tô tại hiện trường mà tiếp tục đi tiếp 70 mét thì dừng lại lề bên phải để quan sát, sau đó tiếp tục lái xe đi.
Bài tập tình huống:
Đỗ Văn T sinh năm 1968 có Giấy phép lái
xe Hạng B2. Khoảng 19h ngày 03/11/2017, T điều khiển ô tô trên đường một chiều
có dải phân cách cứng cố định giữa hai chiều đường, mặt đường trải nhựa bằng phẳng,
rộng 14,4 mét, gồm có 3 làn đường, trong đó làn ngoài cùng sát dải phân cách rộng
4 mét, làn giữa rộng 3,2 mét và làn trong sát mép lề phải rộng 7,2 mét. Lúc này
thời tiết khô ráo, mật độ phương tiện tham gia giao thông bình thường và hai
bên có đèn cao áp chiếu sáng và không bị che khuất tầm nhìn. Khi T điều khiển ô
tô đi ở làn đường ngoài cùng (giáp giải phân cách), qua ngã tư được khoảng 7
mét thì chiếc điện thoại di động của T để bên ghế phụ có tín hiệu cuộc gọi đến.
T dùng tay trái điều khiển vô lăng, tay phải với điện thoại di động để nhận cuộc
gọi. Cùng lúc này có ông Trần Văn K đang điều khiển xe mô tô đi ngược chiều, chếch
chéo từ lề đường bên phải ra gần đến giải phân cách cứng. Do không chú ý quan
sát tình trạng giao thông trên đường và không làm chủ tốc độ nên phần đầu và lốp
xe bên trái của xe ô tô do T điều khiển đã va chạm với xe mô tô của ông K điều
khiển làm ông K bị ngã xuống đường. Sau khi tai nạn, T không dừng xe ô tô tại
hiện trường mà tiếp tục đi tiếp 70 mét thì dừng lại lề bên phải để quan sát,
sau đó tiếp tục lái xe đi.
Ngày 04/11/2017, T đã đưa xe ô tô đến
xưởng sửa chữa ô tô để sửa chữa các hư hỏng do va chạm với xe máy của ông K. Đến
ngày 26/11/2017, khi bị phát hiện, T đã đem ô tô giao nộp cho CQĐT. Các dấu vết
hư hỏng ở xe gồm: ba đờ sốc, dè chắn bùn lốp trước bên trái, đèn gầm xe bên
trái đã được thay sửa. Tại CQĐT, T khai có nghe thấy tiếng xe va chạm nhưng sau
khi lái xe áp vào lề đường để nhìn lại thì không thấy gì bất thường nên mới cho
xe chạy tiếp. Sau khi CQĐT mời đến làm việc (sau gần một tháng) mới biết việc
mình gây tai nạn trước đó nên đã đến thăm nạn nhân tại bệnh viện nhưng gia đình
nạn nhân không cho thăm vì cho rằng T trốn tránh, do bị điều tra mới đến. Ngày
nạn nhân mất, T cũng không được vào thắp hương.
Về phần ông K, sau khi bị tai nạn, đưa
đi cấp cứu tại bệnh viện đến ngày 3/12/2017 thì tử vong tại nhà.
CQĐT đã thu giữ vật chứng tại hiện trường
và tại xưởng sửa chữa ô tô. Ông T tự nguyện giao nộp xe ô tô, giấy phép lái xe,
điện thoại di động.
CQĐT đã tiến hành khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, khám nghiệm các dấu vết trên các phương tiện giao thông.
Biên bản khám
nghiệm hiện trường thể hiện
- Nơi xảy ra tai nạn
thuộc đường một chiều, rộng 14,4 mét chia làm 3 làn đường theo thứ tự từ giải
phân cách phía trái sang lề đường phải theo chiều hoạt động của ô tô từ 4 mét
và 7,2 mét.
- Dấu vết hiện trường:
Vét cầu 2 mét (1), vết cày xước 3,7 mét (2); đầu vết (1) cách giải phân cách cứng
2,7 mét; Vết máu (3) và vị trí xe mô tô đỗ bên phải nằm ngang đầu quay hướng dải
phân cách. Tất cả các dấu vết và xe mô tô đều nằm trên làn đường của ô tô tiếp
giáp giải phân cách, trục trước và trục sau của xe mô tô cách lề phải 13,2 mét
và 12,1 mét. Từ vết cày (1) đến trục vuông góc nơi xe mô tô đổ là 5,7 mét,
không có dấu vết phanh của cả hai phương tiện.
- Ở đầu dải phân
cách có biển cấm đi ngược chiều, biển báo chỉ dẫn người đi bộ qua đường.
Kết luận giám định,
về cơ chế hình
thành dấu vết giữa hai phương tiện trong vụ tai nạn cho kết quả: dấu vết trượt
xước mất cao su màu đen ở má lốp bánh trước bên trái xe ô tô, phù hợp với dấu vết
trượt bám dính chất màu den (dạng cao su) ở mặt trước và mặt ngoài lốc máy xe
mô tô. Dấu vết va chạm ở xe ô to tại vị trí này có chiều từ trước về sau, từ
trên xuống dưới.
Cơ quan CSĐT quyết định trưng cầu giám định nguyên nhân cái chết của ông
K nhưng gia đình nạn nhân từ chối. Tiến hành khám ngoài tử thi xác định một số
dấu vết phù hợp với bệnh án điều trị tại bệnh viện. Bản kết luận giám định pháp y của Viện KHHS-BCA kết luận nguyên
nhân chết của ông K là suy kiệt trên cơ thể của bệnh nhân tiểu đường tuýp II, bị
đa chấn thương.
Trưng cầu giám định
thiệt hại, hội đồng định giá trong TTHS xác định thiệt hại xe mô tô là 350.000 đồng,
còn xe ô tô vì đã sửa chữa trước nên không định giá được. Quá trình điều tra vụ
án, anh Trần Văn P là con trai của ông K, đại diện bị hại giao nộp các tài liệu
liên quan đến yêu cầu bồi thường. Ông T tự nguyện nộp 150.000.000đ vào Chi cục
THA dân sự để khắc phục hậu quả. Với các tình tiết trên, VKSND xác định bị cáo
T vi phạm khoản 2, Điều 12, luật giao thông đường bộ 2008. VKSND truy tố Đỗ Văn
T về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
theo điểm c, khoản 2, điều 260 Bộ luật hình sự 2015.
CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN:
1. Là Luật sư bào chữa cho T, Anh/Chị cần trao đổi những
nội dung gì với T?
- Làm rõ tốc độ của xe ô
tô khi va chạm (2,5 đ). (xác nhận lại có phải T chạy tốc độ 50km/h có chứng
minh được không (2,5 đ)
- Làm rõ trình trạng tham
gia giao thông tại khu vực xảy ra tai nạn.(2,5 đ) (đèn sáng, đường bằng phẳng,
đường khô ráo hay bị trơn trợt)
- làm rõ hoàn cảnh gia
đình, Điều kiện kinh tế, nguồn thu nhập. (2,5). (
- Làm rõ thái độ phản ứng
của gia đình bị hại; xác định thái độ của T sau khi biết hậu quả của tai nạn
(2,5 đ).
2. Cho biết những việc luật sư cần làm cho đến khi
tham dự phiên Tòa sơ thẩm? (chứng minh tư cách của
mình trong vụ án).
A. Thực hiện các thủ tục pháp lý để được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa
(hoặc đăng ký) thoe đúng quy định pháp luật hiện hành. (05 đ).
- Phiếu yêu cầu mời luật
sư bào chữa của bị cáo T gửi tổ chức hành nghề luật sư.
- Bản sao hợp lệ thẻ Luật
sư của Luật sư được mời.
- Giấy giới thiệu của Tổ
chức hành nghề luật sư.
- Hồ sơ xin cấp Giấy chứng
nhận người bào chữa được gửi trực tiếp hoặc qua bưu điện.
B. Sau khi nhận được giấy chứng nhận bào chữa do TAND cấp, Luật sư tiến hành
sao chụp và nghiên cứu hồ sơ vụ án tại Toà án, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
luật sư theo quy định pháp luật (thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ bị cáo T hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của
T …. đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu.
(05 đ).
C. Luật sư tiếp xú trực tiếp với T, trao đổi các vấn đề liên quan đến nội
dung vụ án, thống nhất định hướng bào chữa.
D. Tư vấn cho bị cáo các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của b ị cáo
tại toà, về diễn biến tại toà, cách trả lời câu hỏi thẩm vấn tại toà, nói lời
sau cùng, cách thực hiện quyền kháng cáo… ( 2,5 đ).
E. Xây dụng luận cứ bào chữa cho T, lập kế hoạch xét hỏi. (2,5 đ)
F. Tham gia tranh tụng tại toà. (2,5 đ)
3. Hãy xác định
những nội dung chính để bào chữa cho T tại phiên Tòa sơ thẩm?
Bào chữa theo hướng giảm
nhẹ: (0,5 đ)
- Vị trí vvva chạm với xe
mot tô có thể rơi vào điểm mù mà T không thể quan sát. (2,5 đ)
- Hành vi dừng xe sau đó
đi tiếp không phải là ý thức bỏ trốn mà đ tầm nhình bị hạn chế của bị cáo T tại
vị trí dừng xe otot sau khi va chạm (2,5 đ).
- Phân tích nguyên nhân dẫn
đến tử vong có sự góp phần của bệnh l1y và ông K bị tiểu đường tuýp II (2,5 đ).
- Làm rõ thái độ của bị
cáo tại thời điểm gây ra tai nạn cho nạn nhân không phải là vô trách nhiệm:
ngay lập tức đến thăm hỏi nạn nhân ở bệnh viện; đã chủ động đến thắp hương cho
nạn nhân ngày nạn nhân mất nhưng không được gia đình cho phép. (2,5 đ).
- Làm rõ tình tiết giảm
nhẹ; đã chủ động khắc phục hậu quả (150 tr đồng) trước khi xét xử (điểm b, khoản
1 Điều 51 BLHS ). (2,5 Đ).
Trọn bộ 15 Bài tập Kỹ năng Luật sư trong vụ án Hình sự:
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 01
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 02
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 03
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 04
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 05
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 06
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 07
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 08
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 09
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 10
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 11
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 12
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 13
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 14
- Bài tập Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự số 15